I./ NGUỒN
GỐC
TẾT
TRUNG THU:
Tết
Trung Thu tiếng Anh là Mid Autumn Festival hoặc Full-moon Festival, chữ Nôm: 節中秋;
chữ
Trung: 中秋節 (Trung thu tiết:
Zhōngqiū jié). Tết Trung Thu đã trở
thành ngày tết của
trẻ
em hay Tết
Thiếu
nhi ( Children's Festival), còn được gọi
là Tết
trông Trăng hay Tết hoa đăng.
Tết
Trung thu bắt nguồn
từ
văn minh lúa nước của
Việt
Nam hay tiếp nhận
từ
văn hóa Trung Hoa thì chưa rõ. Có ba truyền
thuyết
chính để
nói về
Trung thu đó là Hằng Nga và Hậu
Nghệ,
vua Đường
Minh Hoàng lên cung trăng và Sự tích về
chú Cuội
của
Việt
Nam.
Theo
các nhà khảo cổ
thì hình ảnh về
Trung thu đã được in trên mặt
trống
đồng
Ngọc
Lũ. Người
Trung Hoa cổ đại
cho rằng
Tết
Trung Thu bắt nguồn
từ
thời
Xuân-Thu. Có lẽ Trung thu được
bắt
đầu
từ
nền
văn minh lúa nước của
đồng
bằng
Nam Trung Hoa và đồng bằng
châu thổ
sông Hồng
của
Việt
Nam, là một ngày lễ
hội
mừng
thu hoạch
được
mùa, vào lúc nông dân nghỉ ngơi
và vui chơi
sau một
vụ
mùa.
Tết
Trung Thu là lễ hội
tại
các quốc
gia Đông Á và Đông Nam Á như Trung Quốc,
Việt
Nam, Nhật
Bản,
Triều
Tiên, Đài Loan, Singapore, ngày này cũng là ngày nghỉ
lễ
quốc
gia tại
Đài Loan, Bắc Triều
Tiên và Hàn Quốc.
Tết
trung thu diễn ra vào ngày rằm
15 tháng 8 Âm Lịch hàng năm và đã có
từ
ngàn năm nay. Đây là thời gian mặt
trăng tròn nhất và sáng nhất,
đây cũng là thời gian người
Châu Á thu hoạch xong mùa vụ
và bắt
đầu
tổ
chức
những
lễ
hội
mà tiêu biểu trong đó là lễ
hội
trăng rằm.
Món ăn được
người
Á Đông lưu
tâm nhất
trong mùa lễ hội
này đó là Bánh Trung Thu, và thường được
thưởng
thức
với
trà, thường
là trà đặc.
Theo
các nhà khảo cổ
học
thì Tết
Trung Thu ở Việt
Nam có từ
thời
xa xưa,
đã được
in trên mặt trống
đồng
Ngọc
Lũ. Còn theo văn bia chùa Đọi năm 1121 thì từ
đời
nhà Lý, Tết Trung Thu đã được
chính thức
tổ
chức
ở
kinh thành Thăng Long với các hội
đua thuyền,
múa rối
nước
và rước
đèn. Đến
đời
Lê - Trịnh
thì Tết
Trung Thu đã được tổ
chức
cực
kỳ xa hoa trong phủ Chúa.
Tục
vui Tết
Trung Thu sử ghi đã có từ
thời
Đường
Minh Hoàng bên Trung-Hoa, vào đầu thế
kỷ
thứ
tám (713-755). Sách xưa chép rằng,
nhân một
đêm rằm
tháng tám, khi cùng các quan ngắm trăng, vua Đường
ao-ước
được
lên thăm cung trăng một lần
cho biết.
Pháp-sư
Diệu
Pháp Thiên tâu xin làm phép đưa vua lên cung trăng.
Lên
tới
cung trăng, Minh Hoàng được chúa tiên tiếp
rước,
bày tiệc
đãi đằng
và cho hàng trăm tiên nữ xinh tươi
mặc
áo lụa
mỏng
nhiều
màu sắc
rực
rỡ,
tay cầm
tấm
lụa
trắng
tung múa trên sân, vừa múa vừa
hát, gọi
là khúc Nghê-Thường vũ y.
Vua
Đường
thích thú học thuộc
lòng bài hát và điệu múa mong đem về
hoàng cung bày cho các cung nữ trình diễn.
Cuối
năm đó, một đoàn vũ nữ
với
điệu
múa Bà-la-môn cho vua xem. Vua thấy
điệu
múa có nhiều chỗ
giống
Nghê-Thường
vũ y, liền
chỉnh
đốn
hai bài hát và hai điệu làm thành Nghê-Thường
vũ y khúc. Các quan cũng bắt chước
vua mang điệu múa hát về
các phiên trấn xa xôi dần
dần
phổ
biến
khắp
dân gian. Tục ngắm
trăng, xem ca múa sau biến thành thú vui chơi
đêm rằm
Trung Thu.
Về
sau tết
Trung Thu lan rộng sang các nước
láng giềng
và thuộc
địa
của
Trung Hoa. Sách sử Việt
không nói rõ dân ta bắt đầu
chơi
Tết
Trung Thu từ bao giờ,
chỉ
biết
hàng mấy
trăm năm trước, tổ
tiên ta đã theo tục này. Từ
đó tết
Trung Thi Việt Nam: "ban ngày làm cỗ
cúng gia tiên, tối đến
bày cỗ
thưởng
Nguyệt.
Ðầu
cỗ
là bánh mặt trăng, và dùng nhiều
thứ
bánh trái hoa quả, nhuộm
các màu các sắc, sặc
sỡ
xanh, đỏ,
trắng,
vàng. Con gái hàng phố thi nhau tài khéo, gọt
đu đủ
thành các thứ hoa nọ
hoa kia, nặn bột
làm con tôm con cá coi cũng đẹp".
II./ SỰ
TÍCH CHỊ
HẰNG
NGA:
Tương
truyền,
vào thời
xa xưa,
trên trời
có mười
ông mặt
trời,
cùng chiếu
xuống
mặt
đất
nóng đến
bốc
khói, biển
hồ
khô cạn,
người
dân gần
như
không thể
sống
nổi.
Chuyện
này đã làm kinh động đến
một
anh hùng tên là Hậu Nghệ.
Hậu
Nghệ
đã trèo lên đỉnh núi Côn Lôn, dùng thần
lực
giương
nỏ
thần
bắn
rơi
chín ông mặt
trời,
chỉ
chừa
lại
1 mặt
trời.
Hậu
Nghệ
đã lập
nên thần
công cái thế, nhận
được
sự
tôn kính và yêu mến của
mọi
người,
rất
nhiều
người
mộ
danh đã tìm đến tầm
sư
học
đạo,
trong đó có Bồng Mông là một
kẻ
tâm tà bất
chính.
Một
thời
gian sau, Hậu Nghệ
lấy
một
người
vợ
xinh đẹp,
tốt
bụng,
tên là Hằng
Nga. Ngoài dạy học
săn bắn,
cả
ngày Hậu
Nghệ
luôn ở
bên cạnh
vợ,
mọi
người
đều
ngưỡng
mộ
đôi vợ
chồng
trai tài gái sắc này.
Một
hôm, Hậu
Nghệ
đến
núi Côn Lôn thăm bạn, trên đường
tình cờ
gặp
được
Vương
mẫu
nương
nương
đi ngang qua. Vương
mẫu
nương
nương
đã cho chàng thuốc
trường
sinh bất
tử,
uống
thuốc
này vào còn được bay lên trời
thành tiên. Nhưng Hậu
Nghệ
không nỡ
rời
xa vợ
hiền,
đành tạm
thời
đưa
thuốc
bất
tử
cho Hằng
Nga cất
giữ
vào hộp
đựng
gương
lược
của
mình. Không ngờ đã bị
Bồng
Mông nhìn thấy viên thuốc.
Khi
Hậu
Nghệ
dẫn
học
trò ra ngoài săn bắn, Bồng
Mông với
tâm địa
xấu
xa đã giả
vờ
lâm bệnh,
xin ở
lại.
Đợi
Hậu
Nghệ
dẫn
các học
trò đi không lâu, Bồng Mông tay cầm
bảo
kiếm,
đột
nhập
vào hậu
viện,
ép Hằng
Nga phải
đưa
ra thuốc
bất
tử.
Hằng
Nga biết
mình tay yếu chân mềm,
trong lúc nguy cấp vội
vàng mở
hộp
gương
lược,
lấy
thuốc
bất
tử
ra và uống
hết.
Sauk
hi Hằng
Nga uống
thuốc
xong, thấy
người
bỗng
nhẹ
rời
khỏi
mặt
đất,
hướng
về
cửa
sổ
và bay lên trời. Nhưng
do Hằng
Nga còn nhớ chồng,
nên chỉ
bay đến
mặt
trăng là nơi gần
với
nhân gian nhất rồi
trở
thành tiên.
Khi
Hậu
Nghệ
về
đến
nhà, các thị nữ
vừa
khóc vừa
kể
lại
câu chuyện
xảy
ra lúc sáng. Hậu Nghệ
vừa
lo vừa
giận,
đã rút kiếm tìm giết
nghịch
đồ,
nhưng
Bồng
Mông đã trốn đi từ
lâu. Hậu
Nghệ
nổi
giận,
lúc đau khổ, Hậu
Nghệ
đã ngửa
cổ
lên trời
đêm gọi
tên vợ
hiền.
Khi đó, anh kinh ngạc phát hiện
ra, trăng hôm nay đặc biệt
sáng ngời,
mà còn có thêm một bóng người
cử
động
trông giống
Hằng
Nga.
Hậu
Nghệ
vội
sai người
đến
hậu
hoa viên nơi Hằng
Nga yêu thích, lập bàn hương
án, đặt
lên đó những món ăn và trái cây mà bình thường
Hằng
Nga thích ăn nhất, để
tế
Hằng
Nga nơi
cung trăng đang nhớ
đến
mình.
Sau
khi mọi
người
nghe tin Hằng Nga lên cung trăng thành tiên nữ,
đều
đã lần
lượt
bày hương
án dưới
ánh trăng, cầu xin Hằng
Nga tốt
bụng
ban cho may mắn và bình an. Từ
đó, phong tục “bái nguyệt”
vào tết
trung thu được truyền
đi trong dân gian.
III./ SỰ
TÍCH CHÚ CUỘI CUNG TRĂNG:
Ngày
xưa
ở
một
miền
nọ
có một
người
tiều
phu tên là Cuội. Một
hôm, như
lệ
thường,
Cuội
vác rìu vào rừng sâu tìm cây mà chặt.
Khi đến
gần
một
con suối
nhỏ,
Cuội
bỗng
giật
mình trông thấy một
cái hang cọp. Nhìn trước
nhìn sau anh chỉ thấy
có bốn
con cọp
con đang vờn nhau. Cuội
liền
xông đến
vung rìu bổ cho mỗi
con một
nhát lăn quay trên mặt đất.
Vừa
lúc đó, cọp mẹ
cũng về
tới
nơi.
Nghe tiếng
gầm
kinh hồn
ở
sau lưng,
Cuội
chỉ
kịp
quẳng
rìu leo thoắt lên ngọn
một
cây cao. Cọp mẹ
lẳng
lặng
đi đến
một
gốc
cây gần
chỗ
Cuội
ẩn,
đớp
lấy
một
ít lá rồi
trở
về
nhai và mớm cho con. Một
lúc sau bốn con cọp
con đã vẫy
đuôi sống
lại,
khiến
cho Cuội
vô cùng sửng sốt.
Chờ
cho cọp
mẹ
tha con đi nơi khác, Cuội
mới
lần
xuống
tìm đến
cây lạ
kia đào gốc vác về.
Dọc
đường
gặp
một
ông lão ăn mày nằm chết
vật
trên bãi cỏ, Cuội
liền
đặt
gánh xuống,
không ngần
ngại,
bứt
ngay mấy
lá nhai và mớm cho ông lão. Mớm
vừa
xong, ông lão đã mở mắt
ngồi
dậy.
Ông lão liền hỏi
chuyện,
Cuội
kể
lại
đầu
đuôi. Nghe xong ông lão kêu lên: Cây này chính là cây có phép cải
tử
hoàn sinh đây. Con hãy chăm sóc cho cây nhưng
nhớ
đừng
tưới
bằng
nước
bẩn
mà cây sẽ
bay lên trời đó.
Nói
rồi
ông lão chống gậy
đi. Còn Cuội thì gánh cây về
nhà trồng
ở
góc vườn
phía đông, luôn luôn nhớ lời
ông lão dặn, ngày nào cũng tưới
bằng
nước
giếng
trong. Từ
ngày có cây thuốc quý, Cuội
cứu
sống
được
rất
nhiều
người.
Tiếng
đồn
Cuội
có phép lạ lan đi khắp
nơi.
Một
hôm, Cuội
lội
qua sông gặp xác một
con chó chết trôi. Cuội
vớt
lên rồi
giở
lá trong mình ra cứu chữa
cho chó sống lại.
Con chó quấn quít theo Cuội,
tỏ
lòng biết
ơn.
Từ
đấy,
Cuội
có thêm một con vật
tinh khôn làm bạn.
Một
ngày, lão nhà giàu ở làng bên hớt
hải
chạy
đến
tìm Cuội,
vật
nài xin Cuội cứu
cho con gái mình vừa sẩy
chân chết
đuối.
Cuội
vui lòng theo về nhà, lấy
lá chữa
cho. Chỉ
một
lát sau, mặt cô gái đang tái nhợt
bỗng
hồng
hào hẳn
lên, rồi
sống
lại.
Thấy
Cuội
là người
cứu
sống
mình, cô gái xin làm vợ chàng. Lão nhà giàu
cũng vui lòng gả con cho Cuội.
Một
hôm, trong khi Cuội đi vắng,
có bọn
giặc
đi qua nhà Cuội. Biết
Cuội
có phép cải tử
hoàn sinh, chúng quyết tâm chơi
dã ác. Chúng giết
vợ
Cuội,
moi ruột
người
đàn bà vứt
xuống
sông, rồi
mới
kéo nhau đi. Khi Cuội trở
về
thì vợ
đã chết
từ
bao giờ,
mớm
bao nhiêu lá vẫn không công hiệu,
vì không có ruột thì sao mà sống
được.
Thấy
chủ
khóc thảm
thiết,
con chó lại gần
xin hiến
ruột
mình thay vào ruột vợ
chủ.
Cuội
cũng liều
mượn
ruột
chó thay ruột người
xem sao. Quả nhiên người
vợ
sống
lại
và vẫn
trẻ
đẹp
như
xưa.
Thương
con chó có nghĩa, Cuội
bèn nặn
thử
một
bộ
ruột
bằng
đất,
rồi
đặt
vào bụng
chó, chó cũng sống lại.
Vợ
với
chồng,
người
với
vật
lại
càng quấn
quít với
nhau hơn
xưa.
Nhưng
cũng từ
khi thay ruột chó vào thì tính nết
vợ
Cuội
tự
nhiên thay đổi hẳn
và mau quên. Cuội dặn
vợ:
"Có đái thì đái bên Tây, chớ
đái bên Ðông, cây dông lên trời!". Nhưng
vợ
Cuội
vừa
nghe dặn
xong đã quên biến ngay.
Một
buổi
chiều,
chồng
còn vào rừng kiếm
củi
chưa
về,
vợ
ra vườn
sau, không còn nhớ lời
chồng
dặn,
cứ
nhằm
vào gốc
cây quý mà đái. Không ngờ chị
ta vừa
đái xong thì mặt đất
chuyển
động,
cây đảo
mạnh,
gió thổi
ào ào. Cây đa tự nhiên bật
gốc,
lững
thững
bay lên trời.
Vừa
lúc đó thì Cuội về
đến
nhà. Thấy
thế,
Cuội
hốt
hoảng
vứt
gánh củi,
nhảy
bổ
đến,
toan níu cây lại. Nhưng
cây lúc ấy
đã rời
khỏi
mặt
đất
lên quá đầu người.
Cuội
chỉ
kịp
móc rìu vào rễ cây, định
lôi cây xuống, nhưng
cây vẫn
cứ
bốc
lên, không một sức
nào cản
nổi.
Cuội
cũng nhất
định
không chịu
buông, cuối cùng cây kéo cả
Cuội
bay vút lên đến cung trăng.
Từ
đấy
Cuội
ở
luôn cung trăng với cả
cái cây quý của mình. Khi nhìn lên mặt
trăng, người ta thấy
một
vết
đen rõ hình một cây cổ
thụ
có người
ngồi
dưới
gốc,
người
ta gọi
cái hình ấy là hình chú Cuội
ngồi
gốc
cây đa.
IV./ SỰ
TÍCH BÁNH TRUNG THU - BÁNH TRĂNG:
Bánh
Trung Thu người Trung Hoa gọi
là Bánh Trăng - Nguyệt. Ngày xưa
còn gọi
là Bánh Hồ (bánh của
người
Hồ),
bánh nhỏ,
bánh đoàn (đoàn tụ), bánh đoàn viên. Những
loại
bánh trên người Tàu ngày xưa
dùng để
cúng tế,
dần
dần
trở
thành bánh dùng để cúng và ăn vào ngày
Trung Thu.
Bánh
Nguyệt
có lịch
sử
lâu dài ở
Trung Quốc,
từ
thời
Ân, Chu ở
vùng Triết
Giang đã có loại bánh kỷ
niệm
Thái Sư
Văn Trọng
gọi
là bánh Thái Sư. Đến thời
Đường,
có một
đêm Trung Thu thì Đường Huyền
Tông và Dương Quý Phi ăn bánh hồ
đào, thuởng
ngoạn
trăng rằm.
Đường
Huyền
Tông chê tên bánh Hồ nghe không hay nên đặt
tên là Bánh Nguyệt cho thơ
mộng
hơn.
Từ
đó về
sau Bánh Trung Thu có tên là Bánh Nguyệt
mà người
Tàu dùng cho đến bây giờ.
V./ TẾT
TRUNG THU TẠI VIỆT
NAM:
1./ Đồ
chơi
Trung thu:
Thế
kỷ
19, Việt
Nam vào ngày Tết Trung Thu thì ban ngày làm cỗ
cúng gia tiên, tối đến
bày cỗ
thưởng
trăng. Đầu
cỗ
là bánh mặt trăng và dùng nhiều
thứ
bánh trái hoa quả, nhuộm
các màu sặc sỡ,
xanh đỏ,
trắng
và vàng. Con gái ở phố
thi nhau tài khéo, gọt đu đủ
thành các thứ hoa, nặn
bột
làm con tôm, con cá voi.
Đồ
trẻ
con chơi
trong Tết
trung thu là các món làm bằng giấy
như
bươm
bướm,
bọ
ngựa,
voi, ngựa,
kỳ lân, sư tử,
rồng,
hươu,
tôm, cá,....Trẻ
con buổi
tối
đêm trung thu, dắt díu nhau kéo co, bắt
cái hồ
khoan, rước
đèn, rước
sư
tử,
trống.
Trống
bỏi,
đèn kéo quân, mặt nạ,
tò he, chong chóng, mặt nạ,
đèn ông sư, đèn ông sao, đầu sư
tử,
ông Địa,
Tôn Ngộ
Không, Trư Bát Giới,
Bạch
Cốt
Tinh...và đầu sư
tử
là các loại đồ
chơi
phổ
biến
nhất
trong dịp
lễ
tết
Trung thu... cho trẻ em trong gia đình.
Vào
Tết
Trung Thu thì người ta mua bánh trung
thu, trà, rượu để
cúng tổ
tiên vào buổi tối
khi Trăng Rằm vừa
mới
lên cao. Đồng thời
trong ngày này, mọi người
thường
biếu
cho ông bà, cha mẹ, thầy
cô, bạn
bè, họ
hàng và các ân nhân khác Bánh Trung Thu, hoa quả,
trà và rượu.
Người
Trung Hoa thường tổ
chức
múa rồng
vào dịp
Trung Thu, còn người Việt
múa sư
tử
hay múa lân. Con Lân tượng trưng
cho sự
may mắn,
thịnh
vượng
và là điềm
lành cho mọi nhà... Thời
xưa,
người
Việt
còn tổ
chức
hát Trống
Quân và treo đèn kéo quân trong dịp
Tết
Trung Thu. Điệu hát trống
quân theo nhịp ba "thình, thùng, thình".
2./ Rước
đèn:
Vào
Têt Trung Thu người ta thường
tổ
chức
cho trẻ
em cùng nhau rước đèn đi khắp
thôn, xóm, khu phố trong đêm trung thu.
Lễ
hội
rước
đèn có thể được
phát động
bởi
chính quyền địa
phương
hoặc
những
nhóm thanh niên trong làng xóm, hoặc
quy mô lớn
với
hàng ngàn học sinh tiểu
học
và trung học cơ
sở
đi khắp
các đường
phố.
3./ Múa lân:
Múa
lân ở
Miền
Nam và ở
miền
Bắc
thường
gọi
là múa sư
tử
mặc
dù sư
tử
thì không có sừng) thường
được
tổ
chức
vào trước
tết
Trung Thu nhưng nhộn
nhịp
nhất
là hai đêm 15 và 16.
4./ Hát trống
quân:
Tết
Trung Thu ở miền
Bắc
còn có tục
hát trống
quân. Đôi bên nam nữ vừa
hát đối
đáp với
nhau, vừa
đánh nhịp
vào một
sợi
dây gai hoặc dây thép căng trên một
chiếc
thùng rỗng,
bật
ra những
tiếng
"thình thùng thình". Những
câu hát theo vần, theo ý hoặc
hát đố
có khi có sẵn, có khi lúc hát mới
ứng
khẩu
đặt
ra, rất
vui và nhiều khi gay go vì những
câu đố
hiểm
hóc.
5./ Tục
tặng
quà Bánh Trung Thu:
Tết
Trung thu người ta thường
tặng
quà cho nhau. Quà thường là các hộp
bánh Trung Thu, lồng đèn, áo quần,
tiền.
Các cơ
quan, doanh nghiệp cũng tặng
quà cho khách hàng, đối tác, nhân viên, sếp,
lãnh đạo,
cha mẹ,
cấp
trên, những
người
cần
nhờ
vả,
thầy
cô giáo hoặc cũng có thể
hàng xóm, bạn bè hoặc
con cháu trong nhà.
Bánh
trung thu ngày nay càng đa dạng khi các nhà sản
xuất
sáng tạo
trong sử
dụng
các nguyên liệu và thực
phẩm
khác nhau đưa vào nhân bánh, nhiều
hình thù sinh động; bao bì mẫu
mã đẹp
mắt,
giá cả
chất
lượng
khác nhau.
6./ Ngắm
trăng rằm:
Ngoài
ý nghĩa vui chơi cho trẻ
em và người
lớn,
Tết
Trung Thu còn là dịp để
người
ta ngắm
trăng. Thời điểm
trăng lên cao, trẻ em sẽ
vừa
múa hát vừa ngắm
trăng phá cỗ.
Trẻ em ngày nay rất mong đợi được đón tết Trung Thu vì thường được người lớn tặng đồ chơi và được ăn bánh nướng, bánh dẻo, bánh Trung Thu. Bánh Trung Thu ngày nay được làm quà tặng phổ biến cho đối tác, nhân viên, người thân, bạn bè nhân ngày Tết Trung Thu.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét